Làng Nhật Tảo hình thành từ bao giờ? Họ nào định cư đầu tiên thì hiện tại không ai biết và chưa tìm tư liệu nào chính xác cụ thể ghi lại. Nhưng qua chữ viết trên quả chuông cổ ( bảo vật quốc gia) đúng năm 948 có ghi: “Cố giáo sư Hà Văn Tấn cũng đã phiên âm và dịch nghĩa những chữ trên chuông Nhật Tảo là: “Thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao Chỉ, vào ngày 29 tháng 4 năm Mậu Thân (9/6/948) các đệ tử Vô pháp môn thuộc hai phái Đạo giáo và Nho giáo, từ trong năm Giáp Thìn (944) đã chung nhau góp tiền vẽ một bức tranh Thái Thượng tam tôn. Chưa đến năm, lại làm 6 phướn báu thứ quan, xong làm cỗ chay hoàn tất. Nay lại cùng đưa việc mua một quả chuông báu, nặng 15 cân để cúng dàng mãi mãi”.
Bài minh nhắc đến năm Giáp Thìn (944) cũng là năm Ngô Quyền mất, cho thấy thời kỳ đó, tuy Ngô Quyền đã giành lại nền độc lập và xưng vương, nhưng vẫn chưa lập niên hiệu. Bài minh còn lưu giữ các tư liệu quý giá giúp cho công tác nghiên cứu về Phật giáo và Đạo giáo từng rất phát triển vào thế kỷ X. Qua đó có thể khẳng định có sự tồn tại của đơn vị hành chính “thôn” ở nước ta rất sớm, từ thế kỷ X.
Như vậy có thể nói làng Nhật Tảo được hình thành từ trước thế kỷ thứ X. Nếu theo lịch sử đình Chèm ghi thì Đình Chèm là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam có niên đại cách đây hơn 2.000 năm. Từ hàng nghìn năm nay, đây là nơi thờ cúng tín ngưỡng của người dân ba làng: Thụy Phương (Chèm), Hoàng Xá, Hoàng Liên (Liên Mạc) của huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đình thờ đức Thánh làng Chèm, tức Lý Thân (còn gọi là Lý Ông Trọng hay Đức Thánh Chèm). Cuốn Lĩnh Nam chích quái, thể hiện rõ ông là một nhân vật truyền thuyết của dân gian Việt Nam. Chuyện kể rằng, vào thời Hùng Vương thứ 18, ở xã Thụy Hương (Thụy Phương) huyện Từ Liêm, đất Giao Chỉ có một cậu bé tên là Lý Thân, tức Lý Ông Trọng. Đến thời nhà Thục, ông trở thành một tướng giỏi giúp vua và được cử đi sứ nước Tần. Khi thấy Lý Ông Trọng là người to lớn khác thường, vua Tần bèn phong ngay làm Tư lệ Hiệu uý, cầm đầu một đội quân hùng mạnh, canh giữ miền Tây. Đội quân của Ông Trọng đánh trận nào thắng trận đấy, chiến công lẫy lừng, giặc Hung Nô quay gót không dám ngó nghiêng. Vua Tần rất mừng rỡ bèn gả con gái cho.
Sự hình thành làng Nhật Tảo gắn liền với khu đất Vua ban cho hòang thân quốc thích của nhà vua. Đình Nhật Tảo được xây dựng để thờ phụng Thái tể thượng tướng Trần Nguyên Trác, con thứ hai của vua Trần Minh Tông, trong triều đại nhà Trần. Trong suốt cuộc đời công tác trong triều, ông đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Cung tĩnh Đại vương, Thái úy, Tả tướng quốc và Thái tể thượng tướng. Ông được ban cho Ấp Cảo Điền, nay là địa phận thôn Nhật Tảo, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội để quản lý theo sự phân công của vua cha.
Tên huyện Từ Liêm được đặt năm Vũ Đức thứ 4 (621) thời thuộc nhà Đường, thuộc Từ Châu (sau đổi là Nam Từ Châu, gồm 3 huyện: Từ Liêm, Ô Diên và Vũ Lập). Đường thư, Địa lý chí giải thích: đặt tên huyện Từ Liêm vì có sông Từ Liêm. Thực ra, 2 chữ Từ Liêm là cách phiên âm Hán Việt của địa danh Chèm (Trèm), thuộc xã Thụy Phương ở phía Bắc huyện (nay là phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm).
Thời Lý-Trần đặt lại huyện Từ Liêm thuộc phủ Đông Đô. Thời thuộc Minh đặt thuộc phủ Giao Châu.
Nhà Lê đặt thuộc phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Từ Liêm trước năm 1831 là một huyện thuộc phủ Quốc Oai của tỉnh Sơn Tây.
Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đặt thuộc phủ Hoài Đức tỉnh Hà Nội (nay là huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội và phần phía nam huyện Hoài Đức, một phần huyện Đan Phượng). Huyện Từ Liêm khi đó gồm 13 tổng[cần dẫn nguồn]:
Tổng Phú Gia (cấp làng xã gồm: Phú Gia, Thượng Thụy, Phú Xá, Thụy Hương (Thụy Phương), Quán La, Nhật Cảo (Nhật Tảo), Hoa Ngạc; nay là phần đất thuộc các phường Xuân La (Quán La), Phú Thượng (Phú Gia, Thượng Thụy) quận Tây Hồ, các phường Đông Ngạc (Nhật Tảo, Hoa Ngạc), Thụy Phương quận Bắc Từ Liêm,
Đến năm 1995, huyện Từ Liêm có 5 thị trấn: Cầu Giấy (huyện lỵ), Cầu Diễn, Mai Dịch, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân và 24 xã: Cổ Nhuế, Đại Mỗ, Dịch Vọng, Đông Ngạc, Liên Mạc, Mễ Trì, Minh Khai, Mỹ Đình, Nhân Chính, Nhật Tân, Phú Diễn, Phú Thượng, Quảng An, Tây Mỗ, Tây Tựu, Thượng Cát, Thụy Phương, Trung Hòa, Trung Văn, Tứ Liên, Xuân Đỉnh, Xuân La, Xuân Phương, Yên Hòa.
Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết 132/NQ-CP[2]. Theo đó:Thành lập quận Bắc Từ Liêm trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã: Thượng Cát, Liên Mạc, Tây Tựu, Thụy Phương, Minh Khai, Phú Diễn, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế; 9,30 ha diện tích tự nhiên và 596 người của xã Xuân Phương; 75,48 ha diện tích tự nhiên và 10.126 người của thị trấn Cầu Diễn. Quận Bắc Từ Liêm có 4.335,34 ha diện tích tự nhiên và 320.414 người, gồm 13 phường trực thuộc. Làng Nhật Tảo được chia ra làm 4 tổ dân phố gồm: TDP Nhật Tảo 1,2,3,4.
Hiện nay trong làng Nhật Tảo có các dòng họ chính sau: họ Nguyễn, họ Đặng, họ Hoàng, họ Phùng, họ Cao, họ Dương, họ Ngô, họ Lê…
Họ Nguyễn là một trong những họ lớn nhất của làng Nhật Tảo. Họ có 7 chi với tổng số gần 400 đinh. Tính đời cụ Tổ đến nay trải qua 26 đời. Họ Nguyễn làng Nhật Tảo có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái rất cao mọi công việc trong dòng họ đều được bàn bạc chu đáo và sự tham gia rất nhiệt tình để cùng nhau xây dựng và phát triển dòng họ. Đức tính tốt đẹp của người họ nguyễn là: chụi khó học hỏi, khiêm tốn, thật thà, tự trọng, chăm chỉ lao động là người không thích khoa trương, khoe mẽ, không sân si, không ghen tỵ, luôn hòa đồng, quan tâm người khác và luôn cống hiến hết mình cho công việc cũng như cuộc sống.
Lăng mộ tổ họ Nguyễn thờ cụ tổ Nguyễn Quí Công hiệu Cảnh Xuân. Vị trí Lăng mộ tổ họ Nguyễn tại tổ dân phố Nhật Tảo 1. Theo vị trí đại lý các cụ trước đây đặt mộ là trên một gò đất cao và rất rộng. vị trí trung tâm của các gò đất hình thành trải qua bao đời. phía đông là Rậm khu đồng bạc, phía Tây khu gò voi, phía Nam là núi cô hình nhân, phía Bắc dải đê sông Hồng.
Khu lăng mộ an táng 3 cụ gồm: Nguyễn Quí Công hiệu Hoàng Tín tự Cảnh Xuân húy Thông. Kỵ ngày 22/9 vào thời nhà Mạc cụ được phong quốc Tử Thái Bảo. cụ bà hiệu Từ Duyên kỵ ngày 12/4 hai cụ sinh được 4 nam 1 nữ. cụ thứ nhất hiệu Chí Thiện, cụ thứ hai hiệu Trọng Thu, cụ thứ 3 hiệu Thanh Xuân, thứ 4 hiệu Trọng Đạt, cụ nữ hiệu Thục Hạnh.
Cụ Trọng Đạt đước sắc phong chức Phụ Quốc Thượng tướng quân, trấn uy vệ vũ úy tước phương tùng Bá bậc khai quốc giai thời vua Mạc. kỵ ngày 22/12
Cụ bà họ Phạm tự là Ngọc Yên hiệu là Từ Minh sinh năm bính Dần 1506, kỵ ngày 11/11 hai cụ sinh được 4 nam, 2 nữ.
(Đây là tài liệu nội bộ trong họ Nguyễn, đang trong quá trình biên soạn mọi người đóng góp.)